Các hiệp sĩ tham gia thập tự chinh Thập_tự_chinh

Ngay sau cuộc Thập tự chinh thứ nhất, các hiệp sĩ đã hình thành nên một tầng lớp mới, tầng lớp quân đội-tôn giáo. Những phẩm chất như sự cống hiến, kỷ luật và kinh nghiệm tu hành của họ được kết hợp vào mục đích quân sự của các cuộc thập tự chinh. Tầng lớp này cung cấp các đội bảo vệ vũ trang cho những đoàn hành hương về Đất Thánh, bảo vệ dân cư và trở nên rất cần thiết cho các vương triều phương Tây cũng như đóng vai trò quan trọng trong xã hội châu Âu thời kỳ đó.

  • Hiệp sĩ dòng Đền (hay Hiệp sĩ Đền thờ; Tiếng Pháp: Ordre du Temple) do các hiệp sĩ Pháp thành lập đầu thế kỷ XII. Họ sống chung với nhau trong các khu nhà hoặc cộng đồng riêng và tôn chỉ là 3 lời thề tu sỹ: nghèo khó, thanh khiết và phục tùng. Họ tự ý thức trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ Công quốc Jerusalem, đảm bảo sự an toàn cho các tuyến đường nối tây Âu với các Công quốc Thập tự quân. Các Hiệp sĩ Đền thờ cũng đảm nhận việc vận chuyển, bảo vệ tiền bạc rất cần thiết cho những cuộc thập tự chinh diễn ra liên tục và do vậy trở thành thể chế ngân hàng quan trọng nhất của thời đại[21]. Năm 1321, các hoạt động của Hiệp sĩ Đền thờ bị Giáo hoàng ra lệnh cấm.
  • Hiệp sĩ Cứu tế Thánh Gioan hay gọi ngắn gọn là Hiệp sĩ Cứu tế (Anh ngữ:Knights Hospitaller): do các hiệp sĩ ở Jerusalem thành lập vào khoảng năm 1103. Tuy quân số không đông bằng Hiệp sĩ Đền thờ nhưng họ đã giữ vai trò quan trọng trong công cuộc bảo vệ Công quốc Jerusalem trong suốt thời gian xảy ra những cuộc Thập tự chinh. Năm 1291, sau khi thành Acre thất thủ, tổng hành dinh của Hiệp sĩ Cứu tế dời đến Cộng hòa Síp rồi sau đó đến đảo Rhodes và cuối cùng là đảo Malta. Cùng với các hiệp sĩ ở Malta, họ cai trị hòn đảo này cho đến năm 1798 khi Napoléon Bonaparte chiếm Malta trên con đường chinh phục Ai Cập. Các hiệp sĩ trở thành Giai cấp tối cao (sovereign order) ở Malta và còn tồn tại đến ngày nay như một nhóm chuyên làm các công việc bác ái.
  • Hiệp sĩ Giéc-man (tiếng Đức: Deutscher Orden): được thành lập vào khoảng năm 1190Acre để bảo vệ các đoàn hành hương người Đức đến Palestine. Tổng hành dinh của họ sau được dời đến Venezia, rồi Transynvania[22] năm 1211 và cuối cùng là đến Phổ năm 1299. Các Hiệp sĩ Giécman đã trở thành đội quân tiên phong của Đức mở rộng lãnh thổ về phía đông và chiếm được một vùng đất dọc theo biển Baltic. Năm 1525, trong phong trào cải cách tôn giáo ở châu Âu, Albert thành Brandenburg, một đại địa chủ theo học thuyết của Martin Luther đã nắm quyền kiểm soát ở đây và giải trừ quyền hành của tầng lớp Hiệp sĩ Giécman.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thập_tự_chinh http://www.amazon.com/Crusades-Terry-Jones/dp/B000... http://www.bartleby.com/67/507.html http://www.crusades-encyclopedia.com/index.html http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id... http://crusades.boisestate.edu/ http://www.fordham.edu/halsall/source/1228frederic... http://www.umich.edu/~eng415/timeline/detailedtime... http://digital.library.wisc.edu/1711.dl/History.Hi... http://www.staff.u-szeged.hu/~capitul/sscle/ http://www.the-orb.net/encyclop/religion/crusades/...